Tác phẩm Lý Thanh Chiếu

Tranh vẽ Lý Thanh Chiếu của Thôi Thác (崔错) đời Thanh.

Sáng tác của bà có: Dị An cư sĩ văn tập (易安居士文集) và Dị An từ (易安词) nhưng đã thất truyền, người đời sau thu thập lại khoảng 70 bài từ soạn thành cuốn Sấu Ngọc từ (漱玉词) và Lý Thanh Chiếu tập hiệu chú (李清照集校注). Ngoài từ, thơ Lý Thanh Chiếu hiện nay còn 15 bài, phần lớn là loại thơ cảm thán thời thế, vịnh sử, gửi gắm tấm lòng yêu đất nước.

Phong cách thơ của bà cứng cáp, hào phóng như bài Đề Bát Vịnh lâu (Đề lầu Bát Vịnh), Thướng Khu mật Hàn công thi (Thơ dâng lên ông Khu mật họ Hàn)...Trong số đó có bài Tuyệt cú (絕句)[4] được nhiều người truyền tụng. Ngoài ra, bà còn có bài văn xuôi Kim thạch lục hậu tự (Bài tựa đề sau cuốn Truyện vàng đá) kể lại quá trình vợ chồng bà biên soạn lại tập Kim thạch lục, với ngôn ngữ trong sáng, giản dị, phóng khoáng, sinh động, được cả hai mặt là tự sự và trữ tình.

Các sáng tác của Lý Thanh Chiếu được chia thành hai thời kỳ:

  • Trước sự kiện Tĩnh Khang, phần lớn từ của bà biểu hiện những cảm xúc trăn trở về tình yêu, niềm vui thích đối với cảnh vật, như các bài: Như mộng lệnh, Điểm giáng thần, Túy hoa ngâm, Nhất tiễn mai, Phượng Hoàng đài thượng ức xuy tiêu...
  • Sau khi Tống Cao Tông phục Tống, phần lớn từ của bà chứa đựng nỗi nhớ thương cố hương cùng niềm cô quạnh của mình, như các bài: Vũ Lăng xuân, Bồ tát man, Niệm nô kiều, Vĩnh ngộ lạc...Đặc biệt, bài Thanh thanh mạn được nhiều người yêu thích.

Lý Thanh Chiếu được nhiều nhà nghiên cứu văn học liệt vào hàng các nhà làm từ chính tông của phái "Uyển ước". Phái này chủ trương tính nghiêm ngặt của âm luật, ngôn ngữ, phong cách của từ v.v. Và khi bàn về từ, Lý Thanh Chiếu đề cao các đặc điểm: hiệp luật, điển nhã và tình trí (ngụ tình hết mức), phản đối việc đưa phép làm thơ vào làm từ, phân định rõ sự khác biệt giữa thơ và từ (biệt thị nhất gia) và chủ trương phải xếp riêng người sánh tác từ thành một phái tác giả.

Phái "Uyển ước" của bà cùng với phái "Hào phóng" do Tô Thức khởi xướng, đại biểu cho hai phong cách từ khác nhau.

Học giả Nguyễn Hiến Lê đã có một nhận xét khái quát như sau: Tô Thức giải phóng từ, bỏ niêm luật, mở rộng phạm vi cho nó, dắt nó từ những cảnh mơ mộng, hương phấn qua khu vực khoáng đạt hào hùng của tình cảm Trái lại, Lý Thanh Chiếu và Tống Huy Tông phản đối lại, bắt từ phải theo âm nhạc[5].

Minh họa Lý Thanh Chiếu đời Thanh.

Hai kỳ Như mộng lệnh (如夢令) đã làm nên tên tuổi của Lý Thanh Chiếu khi còn rất trẻ:

如夢令其一...常記溪亭日暮,沈醉不知歸路。興盡晚回舟,誤入藕花深處。爭渡,爭渡,驚起一灘鷗鷺。Phiên âm...Thường ký khê đình nhật mộ,Trầm tuý bất tri quy lộ.Hứng tận vãn hồi chu,Ngộ nhập ngẫu hoa thâm xứ.Tranh độ, tranh độ, kinh khởi nhất than âu lộ.Dịch thơ[6]...Nhớ buổi chơi đình bên suối,Say khướt chiều về quên lối.Hứng tận quay mũi thuyền,Lạc vào vùng sen đi mãi.Bơi vội, bơi vội, nhớn nhác cò bay trên bãi.
如夢令其二...昨夜雨疏風驟,濃睡不消殘酒。試問卷簾人,卻道海棠依舊。知否,知否,應是綠肥紅瘦。Phiên âm...Tạc dạ vũ sơ phong sậu,Nùng thuỵ bất tiêu tàn tửu.Thí vấn quyển liêm nhân,Khước đạo hải đường y cựu.Tri phủ? Tri phủ? Ưng thị lục phì hồng sấu.Dịch thơ[6]...Đêm qua mưa thưa, gió dữ,Hơi rượu thơm nồng giấc ngủ.Hỏi thử cô cuốn rèm,Thưa rằng: “Hải đường như cũ”.Đúng chứ? Đúng chứ? Phải là hồng phai lục mỡ.

Bài Thanh thanh mạn (聲聲慢) cũng là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi cho bà nhất. Đây là bài từ mà Lý Thanh Chiếu sáng tác sau những ngày chạy xuống Giang Nam. Trước nhiều đau khổ, bà đã lấy những nét sinh hoạt bình thường tả thành lời văn tha thiết, có ý nghĩa xã hội nhất định.

聲聲慢...尋尋覓覓,冷冷清清,淒淒慘慘戚戚。乍暖還寒時候,最難將息。三杯兩盞淡酒,怎敵他、晚來風急!雁過也,正傷心,卻是舊時相識。..滿地黃花堆積,憔悴損,如今有誰堪摘?守著窗兒,獨自怎生得黑!梧桐更兼細雨,到黃昏、點點滴滴。這次第,怎一個愁字了得!Phiên âm...Tầm tầm mịch mịch,Lãnh lãnh thanh thanh,Thê thê thảm thảm thích thích.Sạ noãn hoàn hàn thì hậu,Tối nan tương tức.Tam bôi lưỡng trản đạm tửu,Sạ địch tha vãn lai phong cấp!Nhạn quá dã,Chính thương tâm,Khước thị cựu thì tương thức...Mãn địa hoàng hoa đôi tích,Tiều tuỵ tổn,Như kim hữu thuỳ kham trích?Thủ trước song nhi,Độc tự tránh sinh đắc hắc!Ngô đồng cánh kiêm tế vũ,Đáo hoàng hôn, điểm điểm trích trích.Giá thứ đệ,Chẩm nhất cá sầu tự liễu đắc.Dịch thơ[6]...Lần lần giở giở,Lạnh lạnh lùng lùng,Cảm cảm thương thương nhớ nhớ.Thời tiết ấm lên lại rét,Càng thêm khó ở.Rượu nhạt uống đôi ba chén,Không chống nổi chiều về gió dữ!Nhạn bay qua,Đang đau lòng,Lại đúng bạn quen biết cũ...Chồng chất hoa vàng khắp chỗ,Buồn bực nỗi,Giờ đây còn ai bẻ nữa?Đen kịt nhường kia,Một mình giữ bên cửa sổ!Cây ngô đồng gặp mưa bay,Buổi hoàng hôn thánh thót giọt nhỏ.Nối tiếp vậy,Ghê gớm sao, sầu kia một chữ.